I. NGUYÊN NHÂN
Nguyên nhân chính xác của Peyronie còn chưa rõ. Trong nhiều giả thuyết được đề xuất, giả thuyết về chấn thương của dương vật được cho là một nguyên nhân chính. Chấn thương vào dương vật có thể là cấp tính, gây ra bởi các tại nạn trong sinh hoặc hoặc các biến cố ngoại khoa; hoặc cũng có thể do những vi chấn thương mạn tính tái diễn nhiều lần khi quan hệ tình dục. Tuy nhiên, tất cả nam giới đều có thể gặp vi chấn thương khi quan hệ tình dục nhưng rất ít trường hợp tiến triển thành bệnh Peyronie. Điều đó cho thấy rằng cần các yếu tố nguy cơ khác (như di truyền, các viêm nhiễm hệ sinh dục - tiết niệu, tiểu đường, tăng huyết áp,…) cũng phối hợp gây nên sự hình thành của Peyronie.
Hiện nay, mặc dù những hiểu biết về yếu tố di truyền của bệnh lý Peyronie còn hạn chế, đã có nhiều phát hiện quan trọng trong xác định các nguyên nhân về gene của Peyronie. Các giả thuyết đã được nêu ra là: (I) các đặc điểm gia đình di truyền qua nhóm phản ứng chéo HLA - B7, (II) các bất thường về nhiễm sắc thể như lặp nhiễm sắc thể số 7 hoặc 8 và các vi mất đoạn trên nhiễm sắc thể Y; (III) đa hình đơn nucleotide (SNP) làm gia tăng nồng độ của yếu tố tăng trưởng TGF - B1; (IV) biểu đạt quá mức của gene PTN/OSF-1 và MCP-1; (V) ngoại di truyền điều hòa bởi men histone deacetylase. Những biến đổi này làm tăng sinh các nguyên bào sợi cơ, gia tăng phản ứng viêm và quá trình tái tổ chức mô dẫn đến tăng sinh collagen tổ chức và là yếu tố thuận lợi hình thành mảng xơ trong bệnh lý Peyronie.
II. CƠ CHẾ BỆNH SINH
Cân trắng vật hang là một cân có 2 lớp tổ chức liên kết: lớp dọc ở ngoài và lớp vòng ở trong bao bọc lấy vật hang. Có một vách ngăn không hoàn toàn giữa 2 vật hang và gắn với lớp sợi vòng phía trong. Lớp sợi dọc ở ngoài giúp cấu tạo nên sức bền của vật hang. Tại vị trí 6 giờ nơi vật xốp dính vào 2 vật hang không có lớp sợi dọc này. Người ta cho rằng cấu trúc này giúp cho vật xốp có thể giãn nở tự do theo vật hang và không cản trở sự xuất tinh khi dương vật cương tối đa. Vì vậy, trong bệnh lý Peyronie, các người bệnh thường có mảng xơ tại vị trí mặt lưng dương vật do cân trắng tại vị trí này dày nhất và dễ bị tổn thương khi người bệnh quan hệ tình dục nhất.
Ngoài ra các lớp sợi của cân trắng được cấu tạo bởi các sợi collagen đan xen với các sợi chun. Sợi collagen có tính chịu lực kéo rất cao nhưng không đàn hồi. Khả năng co giãn của dương vật phụ thuộc chủ yếu vào khả năng đàn hồi của các sợi chun. Khi có chấn thương hoặc vi chấn thương tái diễn tác động vào cân trắng sẽ hoạt hóa phản ứng viêm, biến dạng tổ chức sợi đàn hồi và thoái hóa fibrin. Các tế bào nội mô mao mạch phản ứng bằng việc chuyển hóa fibrinogen thành fibrin dưới tác dụng của thrombin, tạo thành một bộ khung fibrin.
Một số các tế bào viêm và các chất trung gian như đại thực bào, bạch cầu trung tính, tế bào mast, các cytokine và các nguyên bào sợi theo hóa ứng động sẽ tập trung về theo các động mạch. Các phản ứng viêm tại chỗ lại sản sinh ra một lượng lớn các cytokine ứ đọng lại ở tĩnh mạch gây nên sự tổng hợp quá mức của các sợi collagen. Hậu quả của quá trình này là sự phá vỡ mạng lưới tinh tế giữa các sợi collagen và sợi chun và hình thành mảng xơ tại vật hang dương vật.
Cơ chế hình thành mảng xơ
III. CHẨN ĐOÁN
- Triệu chứng cơ năng
Khác với cong dương vật bẩm sinh, các người bệnh có cong dương vật mắc phải có thể có các triệu chứng sau:
- Đau tại dương vật khi cương
- Cong dương vật. Góc cong có thể thấy rõ khi dương vật cương tối đa
- Sờ thấy mảng xơ của dương vật tại vị trí cong nhất khi dương vật ở trạng thái mềm
- Biến dạng hình đồng hồ cát tại vị trí mảng xơ
- Rối loạn cương dương do không đạt đủ độ cương cứng
- Khó khăn khi giao hợp do dương vật cong khó đưa vào âm đạo.
Góc cong tại dương vật đôi khi có thể lên tới 90 độ hoặc hơn, có thể làm cho việc điều trị trở nên khó khăn.
2. Thăm khám lâm sàng
Đánh giá khả năng đàn hồi của mô cương vật hang bằng cách kéo giãn dương vật. Đối với những người bệnh Peyronie, dương vật thường giảm khả năng đàn hồi.
Có thể sờ thấy một hoặc nhiều mảng xơ dọc theo cân trắng của dương vật. Vị trí xuất hiện của mảng xơ thường là mặt lưng dương vật.
Mảng xơ dương vật tại vị trí cong
3. Cận lâm sàng
Không có xét nghiệm máu nào đặc hiệu để chẩn đoán cong dương vật. Thông thường, việc khai thác bệnh sử chi tiết và khám lâm sàng là đủ để chẩn đoán cong dương vật.
Một số phương tiện chẩn đoán hình ảnh có thể có giá trị trong việc xác định vị trí và mức độ của cong dương vật mắc phải:
- Chụp Xquang là một phương tiện đơn giản để xác định mảng xơ đã calci hóa trong mô mềm.
- Siêu âm độ phân giải cao là một phương tiện hữu hiệu trong xác định chính xác vị trí và kích thước của mảng xơ. Một thang điểm phân loại mức độ của mảng xơ vữa được chia làm 3 độ: độ I (kích thước mảng xơ < 0,3 cm), độ II (kích thước mảng xơ 0,3 - 1,5 cm) và độ III (kích thước mảng xơ > 1,5cm hoặc có nhiều hơn 2 mảng xơ > 1 cm). Những người bệnh có mức độ xơ hóa nặng (độ III) thường có chỉ định phẫu thuật.
- Chụp CT thường được sử dụng để phát hiện các mảng xơ không calci hóa
- Chụp vật hang là một phương tiện chẩn đoán hình ảnh không chỉ có thể phát hiện được vị trí và kích thước của mảng xơ mà còn đánh giá được mức độ chèn ép vào mô cương của thể hang. Tuy nhiên, đây là một xét nghiêm đắt tiền và xâm lấn nên chỉ được sử dụng trong một số trường hợp đặc biệt.
- MRI là một phương phát hữu hiệu, không xâm lấn có thể đánh giá được mảng xơ ngay từ những giai đoạn sớm khi mới chỉ hình thành tổ chức xơ hóa. Tuy nhiên do giá thành cao nên cũng ít được sử dụng.
Xem thêm: Các phương pháp điều trị cong dương vật