Tràn dịch màng tinh hoàn (phần 1): Tổng quan và các nguyên nhân gây bệnh
Tác giảNguyễn Xuân Đức Hoàng

Tràn dịch màng tinh hoàn (TDMTH) là hiện tượng xuất hiện dịch lỏng ở giữa hai lớp lá thành và lá tạng của bao tinh hoàn và/hoặc dọc thừng tinh. Nó có thể là bẩm sinh hoặc mắc phải. Biểu hiện dễ nhận thấy là sưng bìu một bên mà thường ít kèm theo đau tức khó chịu.

1. ĐẠI CƯƠNG

Tràn dịch màng tinh hoàn bẩm sinh là kết quả của việc ống phúctinh mạc ở trẻ nam không xơ hóa hoặc xơ hóa không hoàn toàn. Trong quá trình phát triển, tinh hoàn được hình thành sau phúc mạc trong ổ bụng và di chuyển xuống bìu qua ống bẹn ở tuần thai thứ ba mươi. Sự di chuyển của tinh hoàn xuống bìu kéo theo lá phúc mạc thành của thành bụng trước qua ống bẹn tạo thành ống phúc tinh mạc. Thông thường, phần gần của ống phúctinh mạc sẽ xơ hóa, trong khi phần xa vẫn tồn tại tạo thành lá thành của lớp bao tinh hoàn, bao phủ xung quanh tinh hoàn. Khoang ảo giữa lá thành và lá tạng của lớp bao tinh hoàn là một nơi dễ dàng chứa đựng chất lỏng, miễn là ống phúc tinh mạc vẫn tồn tại và sự thông thương tự do với khoang phúc mạc vẫn còn, dẫn đến chứng tràn dịch tinh mạc bẩm sinh.

Khi mới sinh, khoảng 80 - 90% trẻ sơ sinh nam đủ tháng còn ống phúc tinh mạc. Con số này giảm dần và ổn định ở mức khoảng 25 - 40% ở hai tuổi. Đến tuổi trưởng thành thì giảm xuống còn khoảng 20%, tuy nhiên chỉ 6% trong số này trở nên rõ ràng về mặt lâm sàng ngoài giai đoạn sơ sinh.

Tràn dịch màng tinh hoàn mắc phải là một nguyên nhân phổ biến dẫn tới sưng bìu ở nam giới trưởng thành. Bệnh gặp với tỷ lệ khoảng 1% nam giới và chủ yếu xuất hiện sau 40 tuổi. Đặc biệt, tỷ lệ mắc bệnh được báo cáo lên đến 20 - 28% ở một số cộng đồng lưu hành bệnh giun chỉ bạch huyết.

2. SƠ LƯỢC GIẢI PHẪU BÌU

Bìu là cấu trúc lỏng lẻo dạng túi do thành bụng trĩu xuống chứa tinh hoàn, mào tinh và một phần thừng tinh. Nhìn bên ngoài, bìu như một túi da nhăn nheo có 1 gờ ở giữa, bên trong có vách chia thành hai túi, mỗi túi chứa một tinh hoàn. Bìu trái thường thấp hơn bìu phải. Từ ngoài vào trong có tất cả 7 lớp 

  • Da: Da bìu chứa nhiều sắc tố hơn các vùng xung quanh và có nhiều tuyến bã nhờn và tuyến mồ hôi, cũng như các nang lông. Da bìu có độ chun giãn rất cao, bình thường bao bọc tinh hoàn với thể tích 15 - 20 ml, nhưng cũng có thể giãn lớn bao bọc khối tràn dịch màng tinh hoàn 1000 ml.
  • Lớp cơ bám da: tạo nên bởi các sợi cơ trơn, sợi đàn hồi và sợi liên kết; nối tiếp với cân Dartos của dương vật, giúp co giãn da bìu.
  • Lớp mô dưới da: mỡ và tế bào nhão.
  • Lớp mạc nông: liên tục bên trên với mạc tinh ngoài của thừng tinh.
  • Lớp cơ bìu: do cơ chéo bụng trong trĩu xuống trong quá trình đi xuống của tinh hoàn. Giúp nâng tinh hoàn lên trên (phản xạ bìu) khi lạnh hoặc khi bị kích thích, hoặc hạ thấp khi nóng.
  • Lớp mạc sâu: Là một phần của mạc ngang (mạc tinh trong) đi xuống bìu qua lỗ bẹn sâu.
  • Lớp bao tinh hoàn: do phúc mạc bị lôi xuống bìu (ống phúc tinh mạc) trong quá trình di chuyển của tinh hoàn, gồm hai lá: lá thành và lá tạng. Giữa hai lá này là một khoang ảo, có khả năng trượt lên nhau một cách trơn tru do luôn có lớp dịch mỏng sinh lý giữa hai lá.

3. CƠ CHẾ BỆNH SINH

Bình thường, luôn có khoảng 1 - 2 ml dịch giữa lá thành và lá tạng của bao tinh hoàn, do bao tinh hoàn tiết ra, đây là kết quả của sự cân bằng trong quá trình sản xuất và tái hấp thu dịch bình thường của bao tinh hoàn. Mất cân bằng giữa quá trình sản xuất và tái hấp thu chất lỏng tại bao tinh hoàn sẽ dẫn tới biểu hiện TDMTH.

Có 4 cơ chế cơ bản mà TDMTH có thể hình thành, gồm:

  • Còn thông thương với khoang phúc mạc thông qua ống phúc tinh mạc.
  • Lớp bao tinh hoàn tiết quá nhiều dịch (TDMTH thứ cấp), vượt quá khả năng tái hấp thu.
  • Lớp bao tinh hoàn tiết dịch bình thường nhưng việc tái hấp thu chất lỏng bị rối loạn.
  • Cản trở sự dẫn lưu bạch huyết của các cấu trúc bìu.

Ở trẻ em, sự tồn tại ống phúc tinh mạc, cho phép dịch màng bụng chảy vào bìu, là nguyên nhân chính gây ra chứng tràn dịch màng tinh hoàn. Tuy nhiên, ở người lớn, bệnh giun chỉ do Wuchereria bancrofti được cho là thủ phạm chính gây ra TDMTH, ảnh hưởng đến 120 triệu người tại hơn 73 quốc gia. Nhưng tại Mỹ, nguyên nhân gây bệnh chủ yếu là chấn thương hoặc biến chứng sau phẫu thuật.

4. PHÂN LOẠI

4.1. Tràn dịch màng tinh hoàn nguyên phát

TDMTH nguyên phát thường xuất hiện ở trẻ nhỏ, do ống phúc tinh mạc chưa xơ hóa hoàn toàn, tạo thành đường thông thương với khoang phúc mạc. Dịch từ khoang phúc mạc di chuyển qua lỗ thông thương tích tụ tại khoang màng tinh hoàn, gây nên tràn dịch màng tinh hoàn.

4.2. Tràn dịch màng tinh hoàn thứ phát

  • Tràn dịch màng tinh hoàn sau viêm tinh hoàn, viêm mào tinh.
  • Tràn dịch màng tinh hoàn sau lao tinh hoàn, mào tinh.
  • Tràn dịch màng tinh hoàn sau chấn thương.
  • Tràn dịch màng tinh hoàn do u tinh hoàn, mào tinh hoàn.
  • Tràn dịch màng tinh hoàn do giun chỉ.
  • Tràn dịch màng tinh hoàn sau phẫu thuật giãn tĩnh mạch tinh: do sự phá vỡ hệ bạch huyết xung quanh thừng tinh. Biến chứng sau mổ này có tỷ lệ từ 3 - 33%.
  • Tràn dịch màng tinh hoàn sau ghép thận.
  • Tràn dịch màng tinh hoàn sau phẫu thuật thoát vị bẹn.
  • Tràn dịch màng tinh hoàn sau sinh thiết tinh hoàn.
  • Tràn dịch màng tinh hoàn sau đặt tinh hoàn giả.

Xem thêm: Tràn dịch màng tinh hoàn (phần 2): Triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng

 

Liên hệ với tác giả:

  • Zalo
  • Phone

Bài viết liên quan

Đăng kí khám

Đặt hẹn ngay để nhận tư vấn và xếp lịch khám kịp thời

Gửi yêu cầu