Kỹ thuật cấy ghép thể hang nhân tạo
Tác giảNguyễn Xuân Đức Hoàng

Phẫu thuật cấy ghép thể hang nhân tạo là cuộc cách mạng mới trong việc điều trị rối loạn cương dương. Ở phần này, chúng tôi sẽ gửi đến quý độc giả các đường mổ trong cấy ghép thể hàng nhân tạo và ưu nhược điểm của từng kỹ thuật mổ.

Hình 1. Vị trí các thiết bị trong phẫu thuật cấy ghép thể hang 3 thiết bị

1. Các đường mổ tiêu chuẩn trong cấy ghép thể hang nhân tạo (IPP)

          Có 5 đường tiếp cận cơ bản trong phẫu thuật cấy ghép thể hang nhân tạo là đường gốc dương vật – bìu (penoscrotalPS), dưới xương mu (infrapubic – IP), dưới rãnh quy đầu (subcoronal – SC), trên xương mu (suprapubic), và vùng tầng sinh môn (perineal).

          Tuy nhiên có hai đường ngày nay không còn sử dụng nữa, chỉ còn mang tính lịch sử. Phương pháp tiếp cận trên xương mu của Scott đã được sử dụng trong những năm đầu của IPP, trước khi phát triển ống chống xoắn, vì cần phải có các vết rạch lớn để luồn ống (bơm dẫn nước) vào từng ống bẹn nhằm ngăn ngừa xoắn và hư hỏng. Đường mổ tầng sinh môn được mô tả ban đầu cho việc cấy ghép mảnh ghép dương vật bán cứng và không phù hợp với IPP.

Hình 2. Đường mổ tầng sinh môn

Đồng thuận quốc tế về y học tình dục (International Consultation of Sexual Medicine) năm 2015 đã tuyên bố, “penoscrotal, infrapubic và subcoronal là ba cách tiếp cận chính để cấy ghép mảnh ghép dương vật”. Đường mổ dưới rãnh quy đầu để đặt IPP lúc đầu được Egydio phổ biến cho IPP kết hợp sự điều chỉnh và kéo dài dương vật trong bệnh cảnh của Peyronie. Bài báo đầu tiên được xuất bản về đường mổ cấy ghép thể hang dưới rãnh quy đầu là vào năm 2016. Do ra đời muộn như thế nên các đường vào dưới xương mu và gốc dương vật bìu vẫn là phương pháp được sử dụng nhiều nhất để cấy ghép IPP. Sau năm 1990, cách tiếp cận gốc dương vật bìu đã trở thành cách tiếp cận thường xuyên nhất được sử dụng trong thực hành lâm sàng cho đến ngày nay.

Hình 3. Các đường mổ khác nhau trong cấy ghép thể hang nhân tạo

 

2. Ưu - nhược điểm của từng đường mổ cấy ghép IPP

 

Đường mổ Ưu điểm Nhược điểm Nhược điểm nghiêm trọng
Gốc dương vật - bìu (PS)
  • Tiếp cận tốt của cả đoạn gần và xa của thể hang ngay cả đối với bệnh nhân béo phì hoặc xơ hóa thể hang.
  • Ít nguy cơ tổn thương bó mạch thần kinh lưng dương vật.
  • Dễ dàng đặt bơm.
  • Vết rạch ở bìu nhỏ để lại sẹo không đáng kể.
  • Qua một đường rạch da có thể cấy ghép IPP và đăt cơ thắt niệu đạo nhân tạo.
  • Đặt mù bể chứa vào khoang Retzius.
  • Phù bìu có thể trì hoãn kích hoạt thiết bị.
  • Nguy cơ tổn thương niệu đạo. Tuy nhiên niệu đạo đoạn này có thể nhìn thấy và được sửa chữa dễ dàng.

 

Không

 

 

 

 

 

Đường dưới xương mu (IP)
  • Đặt bể chứa dễ dàng hơn, an toàn hơn dưới tầm nhìn trực tiếp.
  • Giảm phù bìu dẫn đến kích hoạt bơm sớm hơn.
  • Thời gian phẫu thuật ngắn hơn ở những PTV kinh nghiệm.
  • Vết rạch giúp bệnh nhân tránh xa nguy cơ tiểu không tự chủ và cho phép tạo hình thành bụng.
  • Hạn chế tầm nhìn đoạn xa của thể hang.
  • Đặt bơm không tối ưu, có nguy cơ di chuyển bơm.
  • Béo phì nặng và xơ hóa thể hang gây nhiều khó khăn.
  • Nếu mổ lại theo đường mổ này thường rất khó và kết quả phẫu thuật không tốt.
  • Có thể nhìn thấy sẹo.

Nguy cơ tổn thương dây thần kinh lưng dương vật.

 

 

 

 

Đường dưới rãnh quy đầu (SC)

  • Có thể nhìn rõ ràng thể hang và niệu đạo.
  • Có thể dễ dàng thực hiện các thủ thuật tái tạo bổ sung.
  • Tương tự như IP, thời gian kích hoạt bơm nhanh hơn và việc lắp bể chứa dễ dàng hơn.
  • Phù hợp với gây tê cục bộ vì thị trường không bị cản trở sau khi tiêm thuốc tê và ít đau sau phẫu thuật.
  • Kết quả thẩm mỹ tối ưu với một vết rạch duy nhất.
  • Được đề xuất tương đối gần đây nên còn giới hạn số lượng nghiên cứu về phương pháp phẫu thuật này và thời gian theo dõi bệnh nhân.
  • Thời gian phẫu thuật dài hơn IP hoặc PS.

 

 

Việc tiếp cận SC đòi hỏi phải lột da dương vật xuống, do đó, các biến chứng như thay đổi thần kinh cảm giác, mất da, hoại tử quy đầu và phù bạch huyết là rất hiếm nhưng cũng đã được báo cáo.

 

 

 

3. Chăm sóc sau mổ

  • Điều trị kháng sinh: Vancomycin 1g / IV, Gentamycin 160 mg/IM trong 2 ngày, chuyển sang quinolon hoặc nhóm Cephalosporin thế hệ 3 đường uống 7 ngày sau đó (khi bệnh nhân về nhà)
  • Giảm đau: NSAIDs
  • Rút dẫn lưu 1-2 ngày, khi dẫn lưu không còn ra thêm dịch.
  • Không hoạt động tình dục cho tới 6-8 tuần
  • Vệ sinh vùng bìu, thay băng hàng ngày

Xem thêm:

Phần 2: Các loại thể hang nhân tạo

Phần 4: Các rủi ro trong phẫu thuật cấy ghép thể hang nhân tạo

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Liên hệ với tác giả:

  • Zalo
  • Phone

Bài viết liên quan

Đăng kí khám

Đặt hẹn ngay để nhận tư vấn và xếp lịch khám kịp thời

Gửi yêu cầu